Hồi tôi còn nhỏ cũng thế, nếu không sợ mẹ đau lòng thì tôi đã không đem đổ cả lũ tượng đất lớn nhỏ mà tôi hì hụi nắn được trong góc vườn. Bắt đầu biết nghịch đất sét, tôi đã mày mò nặn con chó, con mèo, nặn hình ông Thọ, cô tiên.
Bé Dung người mảnh dẻ, khuôn mặt nhỏ. Đôi mắt to, đen và có cái nhìn mới sáng làm sao.
Mẹ tôi mỗi lần nhìn vẻ sáng ấy cứ thì thầm nói với tôi: “Sao cứ như là ba con đang nhìn?”
– Mẹ cho em ăn uống đầy đủ lắm mà sao em cứ gầy.
“Khi con còn nhỏ mẹ đâu có chăm kỹ như thế này phải không?” Có lần tôi hỏi khi thấy mẹ buộc khăn vào cổ em, rồi chọn gắp từng miếng thức ăn bỏ vào cái chén kiểu trước mặt. Mẹ bảo: “Em khác, con khác”. Mắt mẹ thoảng vẻ buồn.
Cái dáng gầy của mẹ ra vào trong nhà ngoài sân thật đúng như người xưa vẫn ví von: mình hạc xương mai. Lớn lên một chút, tôi thường nghĩ mẹ tôi là con hạc từ trên trời bay lạc xuống đậu trên mảnh đất gồ ghề đầy sóng gió là cha tôi. Cả đời lúc nào tôi cũng mang một ám ảnh. Trong máu của mình, mẹ hay là cha đang ngự trị?
Nhà tôi ở trên bờ sông lớn có con đập chắn ngang. Khi cơn mưa đầu mùa dội về, nước sông cuộn lên vỗ ào ạt như rồng dữ lồng lộn xô mạnh vào bờ đá. Nghe mưa dội ào ào trên mái hiên, em Dung reo lên, chạy ào ra sân nhập bọn cùng lũ trẻ trong xóm, ngửa mặt lên trời tắm mưa.
Mẹ tôi hốt hoảng kêu lên. Tôi đội mưa lao ra, tóm cổ con bé lôi về. Tóc nó ướt lướt thướt dính bết quanh khuôn mặt gầy nhỏ, hàm răng sún nhe ra vô tư. Quần áo dán vào thân thể, hóa thành mỏng tanh, trong suốt như gương. Mẹ tôi ôm chầm lấy em, bọc nó vào trong cái khăn lông mà lau lấy lau để.
Cho thay quần áo rồi, chải tóc hơ chân rồi, mẹ tôi mới lấy cái thước kẻ lớn dần mạnh mấy lần vào bàn tay em. Em tôi rụt tay lại, khóc òa. Mẹ nghiêm giọng quát:
– Con gái nhà lành, ai cho lõa lồ tắm mưa như thế? Đánh thật đau cho nhớ!
Em Dung cứ tức tưởi khóc, hai con mắt to và đen cứ lấp lánh vẻ uất ức gan lì. Cái vẻ gan lì ấy làm hại nó. Mẹ tôi định tha, nhưng thấy vậy lại bắt em quỳ quay mặt vào vách. Tôi muốn xin cho em, muốn nói với mẹ rằng dù sao nó cũng chỉ mới là một con nhãi ranh còn chưa hỉ sạch mũi. Nhưng mẹ bảo tôi, mắt đỏ hoe:
– Măng non không uốn, để cứng thành tre làm sao uốn được?
Tôi lặng im. Khi nào cũng vậy, nhìn thấy đôi mắt rơm rớm của mẹ là tôi đầu hàng. Hồi tôi còn nhỏ cũng thế, nếu không sợ mẹ đau lòng thì tôi đã không đem đổ cả lũ tượng đất lớn nhỏ mà tôi hì hụi nắn được trong góc vườn. Bắt đầu biết nghịch đất sét, tôi đã mày mò nặn con chó, con mèo, nặn hình ông Thọ, cô tiên.
Các bạn rượu của cha tôi xoa đầu tôi mà bảo: “Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh”, con của một họa sĩ thì tương lai rõ là một nhà điêu khắc rồi, không sai… Rất có thể điều tiên đoán ấy sẽ thành sự thật và tôi sẽ trở thành con kế nghiệp của cha tôi nếu một hôm tôi không khờ dại nặn ra pho tượng đất sét ấy.
Thấy nó, mẹ tôi choáng váng, nghẹn không nói được. “Huân, con làm gì thế này?” Bức tượng của tôi chỉ dài chừng ba tấc, đây là hình ảnh một người đàn bà không mặc quần áo. Năm đó tôi mười hai tuổi, với cục đất sét tôi thể hiện sự tò mò giới tính của tôi, và không quên dùng một nhúm tóc rối nhét vào giữa hai bắp vế pho tượng.
Mẹ tôi đập bể tan tành cái tượng ma quỷ đó. Tôi uất ức, vì đó chỉ là kết quả sự chiêm ngưỡng hồn nhiên khi một lần tôi tình cờ thấy mấy cô hàng xóm đi tắm ngoài bến nước. Mẹ tôi khóc không thành tiếng. Người cho đào hết bộng đất sét sau vườn đem đổ đi, thay vào bằng đất bùn lấy ở bờ sông sau mùa lũ. Bộng đất ấy dài bốn mét, sâu đến hai mét tư, khi vét xong để lại một lỗ trống toang hoác nơi góc vườn.
Người ta lấp đầy nó bằng đất thịt lấy ở triền sông. Ba tôi bảo: “Việc gì phải thế”. Mẹ tôi chỉ nói: “Đất này trồng cây, trồng hoa tốt hơn”. Từ lâu rồi mẹ tôi vẫn thường đối phó với ba tôi bằng cách dịu dàng lảng tránh như thế. Giữa ba mẹ tôi không bao giờ to tiếng, bởi người nhường nhịn lúc nào cũng là mẹ. Mẹ mảnh khảnh, nhỏ nhẹ, tối ngày cố xếp đặt căn nhà, khu vườn thật chỉn chu, ngăn nắp.
Ba tôi thì cao lớn, nóng nảy, ra vào trong cái trật tự của mẹ như một con ngựa chiến bị buộc trong chuồng. Từ ngày ấy, mẹ luôn đóng cửa phòng vẽ của ba tôi, nó đã trở thành một thế giới riêng đầy bí ẩn. Ngoài giờ ăn, ngủ, hầu hết thời gian ba tôi giam mình trong đó. Rồi ít lâu sau, người ngủ luôn ở đấy, hầu như không quay về phòng nữa.
Cuộc sống gia đình vẫn lặng thầm trôi đi trong êm ấm, và với tôi thế giới bên trong căn phòng vẽ vẫn là một thế giới bí ẩn đầy kích thích khiến tôi luôn tưởng tượng mà không dám đặt chân đến bao giờ.
Em Dung quỳ úp mặt vào tường, thật tội nghiệp. Tôi mua bánh chuối ram, gói trong miếng giấy, len lén đem vào cho em. Lúc đó tôi mới biết em đã không quỳ yên một chỗ như tôi tưởng. Em nhích dần dần đến bên cửa sổ, bây giờ em chẳng còn úp mặt vào bức vách mà đang nhìn ra sông. Gió từ ngoài thổi vào, làm tóc mai em bay nhẹ, em nheo mắt và cười, trong khi cao hứng em tì luôn hai khuỷu tay chồm lên cửa sổ như người ngắm cảnh.
“Thế mà gọi là chịu phạt đấy à? Mẹ thấy thì lại bắt quỳ thêm cho đến chiều!” Em giật mình, quay nhìn tôi, hơi e dè một lát rồi nhoẻn cười: “Suỵt, mẹ đang nấu ăn, không thấy đâu”. Hai anh em quỳ bên nhau nhìn ra con đập. Con nước đầu mùa vẫn lồng lộn dưới chân kè đá. “Anh Hai ơi, sao mà mắt anh đỏ?”. Em Dung hỏi, bàn tay nhỏ của em chạm lên má tôi. “Anh nhớ ba” “Ba ngày xưa ra sao hở anh?” Tôi lúng túng, không biết nói sao.
Thực tình là ba đã có nhiều điều không phải với mẹ. Nhưng tôi không thể không yêu ba tôi, không thể không cảm thấy mối liên hệ máu thịt và sức hấp dẫn kỳ lạ toát ra từ người đã cho tôi cuộc sống. Mỗi lần nhìn con đập này, tôi không sao quên được những ngày vừa ngớt cơn mưa đầu mùa, ba dẫn tôi lội nước đến bên bờ sông. Dòng nước đã vượt qua con đập, chảy xiết. Có năm nước dữ, một bên mé đập sạt đi những tảng lớn, sau mùa lũ người ta phải vá lại.
“Ba ơi, sao người ta không xây đập cao lên chừng năm tấc nữa cho nước khỏi tràn hở ba?”. Tôi hỏi. Ba tôi cười, người cõng tôi lên vai cho nước khỏi làm ướt chân tôi. “Con đập là kỷ cương của dòng sông, nhưng nó không phải là chính dòng sông”. Ba tôi nói, câu trả lời của người bay thoảng trong trí nhớ vô tư của tôi hồi ấy, đến giờ tôi vẫn nhớ nhưng chẳng hiểu thật sự người muốn nói gì.
Có lẽ đó là những giờ đáng nhớ nhất của hai cha con, vì ba tôi về sau này càng ngày càng lặng lẽ, nếu không giam mình trong phòng vẽ thì cũng đi giang hồ đâu đó, cho đến khi người mất đột ngột trong một chuyến ngao du. Tôi còn nhớ đấy là tháng cuối mùa mưa, tôi sắp tròn mười bảy tuổi.
Mẹ tôi một đời khổ hạnh, âm thầm, nhẫn nhục chỉ để được danh chính ngôn thuận đứng ở đầu quan tài cha tôi khi đưa người đến mộ. Tôi gói những cái cọ vẽ bỏ xuống huyệt cho cha tôi. Ở đằng xa, người đàn bà ôm đứa bé đứng co ro, khép nép, cái nón che nghiêng nửa mặt. Nhiều người ném về phía ấy những cái nhìn khinh rẻ, những cái nguýt, cái háy đầy vẻ lạnh nhạt.
Cô ta xin một chiếc khăn tang. Bà thím tôi trề môi: “Khăn tang gì mà khăn tang, ý nó muốn chia gia tài đó”. Nhiều người rỉ tai mẹ tôi: “Đừng cho. Phải thử máu xem có chắc không cái đã”. Mẹ tôi chỉ khóc, che mặt không dám nhìn. “Hỏi thằng Huân, nó là con trai, quyền huynh thế phụ” “Đừng cho, bây giờ mà cho, sau phiền phức lắm” – Tiếng người thì thào bên tai tôi. Tôi đau thắt, lòng ngổn ngang, cảm giác như có ai xô ập mình đến bên góc tường.
Người đàn bà ấy bồng đứa bé đến trước mặt tôi. Bất giác tôi đưa hai tay đón đứa bé vào lòng. “Mày điên sao Huân, đã nhắc cho mà biết…”. Người nọ, người kia xì xào, có câu đầy mỉa mai: “Thằng này có căn tu, không chừng là Bồ Tát chắc. Mẹ đẻ ra mà không binh, đi nghe lời người dưng”. Tôi không nói, ôm em vào lòng. Không cần phải thử máu, tôi thấy nơi khuôn mặt của đứa trẻ là ánh mắt dữ dội của cha tôi, những sợi tóc và đôi môi hoang dã của cha tôi…
Tôi đã không thành nhà điêu khắc mà trở thành một kỹ sư nông lâm, như mong ước của mẹ tôi. Mẹ chỉ muốn tôi sống một đời yên bình, không phải bước lên con đường nghệ thuật đầy sóng gió và bất trắc.
Tôi cũng thích nghề của tôi vì tôi yêu cỏ cây, yêu cái mầu xanh thẳm sâu từ đất hiện ra rồi vươn cao theo mưa nắng. Thuở đầu đời tôi cũng muốn đi thật xa, nhưng mẹ tôi rơm rớm nước mắt, thế là tôi ở lại… Mẹ ước ao sau này các con tôi lớn lên bên cạnh người, như cành lá từ cội mọc ra rồi lại rụng về cội, ấm cúng thân thương. Mẹ sợ tôi phải sống như ba tôi, người ở đây mà hồn bay xa đến tận nơi nào.
Khi ba tôi mất rồi, tôi mới đặt chân vào phòng vẽ. Những bức tranh người để lại đan kín trên các bức vách rộng, lộng lẫy và hoành tráng, đấy là cả một gia sản mà người để lại cho tôi. Mỗi bức tranh như một ẩn ngữ mà tôi, kẻ kế thừa, chưa có chiếc chìa khóa mật mã trong tay để giải thích. Nhưng cần gì, chẳng phải ngày xưa cha tôi thường bảo: “Cuộc đời là để sống chứ không phải để giải thích” hay sao?
Trong những bức tranh này có rất nhiều bức vẽ hình người đàn bà với da thịt lộng lẫy. Từ những mảng mầu trên ngực, trên môi, trên đôi tay mọc lên cây lá và cỏ hoa đầy sức sống: cái vẻ rực rỡ của mầu xanh cây cỏ, của mầu hồng da thịt này, tôi biết cội nguồn của nó. Hào quang lấp lánh ấy tôi đã thấy một lần nơi gương mặt người đàn bà đã trao em Dung cho tôi.
Có phải người đàn bà ấy đã đem đến cho cha tôi cái gia sản của sắc mầu và ngôn ngữ này? Có thể nói thế hay không, tôi cũng không biết nữa… Đôi khi tôi hoang mang tự nhủ: Lẽ nào tôi đang mắc nợ bà ấy sao, hay là bà ấy nợ tôi?
Trời ngớt mưa, tôi vội vã từ những cánh đồng Hương Thủy về thăm mẹ. Sân nhà sũng nước, mái hiên ngói cổ nhỏ từng giọt, từng giọt vẽ ra một hàng lỗ chỗ trũng xuống trên mặt đất.
Trời ngớt mưa, tôi vội vã từ những cánh đồng Hương Thủy về thăm mẹ. Sân nhà sũng nước, mái hiên ngói cổ nhỏ từng giọt, từng giọt vẽ ra một hàng lỗ chỗ trũng xuống trên mặt đất.
Em Dung chạy ra đón tôi, hai cánh tay gầy như hai cái que ôm lấy cổ tôi, nhảy thót lên hông tôi cứ như thể em còn nhỏ lắm. Tôi bẹo má em:
– Lên mười rồi nghe, còn làm ra vẻ nhỏ em quá há.
Em cười, cầm tay tôi kéo vào phòng em, chỉ cho tôi những bức tranh mầu nước nguệch ngoạc. Em khoe: “Anh Hai ơi, em đi thi vẽ ở nhà Thiếu nhi, được giải nhất”.
– Đâu nào, đưa anh coi, tranh mèo cào của Dung sao hên thế.
Em đưa cho tôi xem bức tranh em vẽ dòng sông đang chảy tràn qua con đập, với những con cá đang tung mình nhảy qua theo dòng nước. Những con cá có đôi *** rất nảy nở, như đang căng đầy sữa.
Tôi cười. Em bảo tôi: “Để cho cá con bú thật nhiều, cho nó mau lớn”. Tôi nhìn một lát, gật đầu rồi cất bức tranh vào hộc bàn. “Xem chừng mẹ thấy thì chết”. Em Dung nhìn tôi: “Sao thế, khi nhỏ em không bú mẹ sao?”.
Tôi không trả lời, chỉ nhìn vào mắt em. Mắt em tôi có hàng mi dài và cong đen mướt như mắt di-gan. Tôi biết, mẹ tôi đã phí bao nhiêu công phu để dập tắt cái căn cơ hoang dã trong đôi mắt này. Nhưng vô ích. Tôi biết, rồi một ngày em sẽ ra đi…
Từ lúc yêu cây cỏ và đất đai, tôi cũng đã hiểu dòng sông và con đập. Tôi biết nếu không có con đập thì mỗi mùa mưa cả vùng đồng bằng phía nam sẽ trở thành vực xoáy tàn khốc, nhưng nếu con nước không tràn qua thì hoặc là vùng đất ấy sẽ khô thành hoang mạc, hoặc là con đập sẽ vỡ tan tành trong cuồng nộ của dòng sông mùa lũ.
Vì thế mà hằng năm con đập vẫn chịu đựng vết đau sạt lở. Nó chịu đau để được cùng tồn tại với sông…